Vì sao cộng sản sợ tôn giáo?


Tuổi đời của chủ nghĩa cộng sản so với tôn giáo thường được ví von như một chú “nhóc tì” với bà lão trăm tuổi, dẫu có thiên tài đến cỡ nào chú nhóc ấy cũng không thể hơn bà cụ kia cả về hiểu biết lẫn khôn ngoan.

Sinh sau đẻ muộn lẽ ra phải biết trọng người đi trước nhưng chắc do… “đẻ ngược” nên thay vì làm vậy, cộng sản lại ác cảm với tôn giáo. Ngoài miệng họ luôn bảo “tôn trọng tự do tín ngưỡng” nhưng qua cư xử cho thấy thâm tâm họ không muốn thấy bất kỳ tôn giáo nào “mạnh khỏe”. Thậm chí có những thời điểm người có đạo còn bị xem như những công dân hạng hai, chỉ vì mấy chữ ‘Thiên Chúa giáo’ trong lý lịch mà mọi cửa ngõ đến với xã hội đều bị bịt kín. Linh mục, tu sĩ còn nặng nề hơn vì bị xem như những thành phần nguy hiểm.

Tôn giáo dạy con người “làm lành tránh dữ” chính quyền cũng bảo họ “xây dựng xã hội công bằng”, cả hai đều cùng chí hướng lẽ ra phải là cặp đồng hành thân thiết nhưng thực tế lại luôn diễn ra trái ngược, vậy một trong hai ắt có kẻ đã nói dối! Bản chất tôn giáo không được phép làm điều đó, dối trá tôn giáo không thể tồn tại lâu đến hàng ngàn năm, vậy “còn ai trồng khoai đất này”?

Sự dối trá của đảng cộng sản đối với dân chúng trong nước là chuyện “xưa như trái đất”, bởi đầu óc của những kẻ cầm quyền luôn nghĩ rằng “nhờ công ông Hồ, ơn mưa móc của đảng mới cứu cả dân tộc ra khỏi bị hai đế quốc sừng sỏ xâm lăng và thống nhất đất nước…” vì thế họ đã đối xử với dân như những đã chịu ơn họ (nhưng cái giá 80 triệu dân phải trả cho kiểu thống nhất ấy “đắt” và phi lý cỡ nào mọi người nay đều đã biết).

Đáng buồn hơn mỗi khi các thủ tướng hay chủ tịch nước công du nước ngoài tìm kiếm đầu tư cứu nền kinh tế, họ thường khoe 2 điều: VN có nền chính trị ổn định (nhưng thực chất là đàn áp khiến dân sợ chẳng ai dám “hó hé” biểu tình) và 2/3 dân số là lớp trẻ lại cần cù, chăm chỉ, chịu khó v.v… những “ưu điểm” chỉ có ở những nước độc tài VN, TQ, Miến Điện, chủ nhân “marketing” với đối tác khách về lực lượng lao động giá “bèo” 60-70 USD/tháng có khác gì đầy tớ.

Đúng là những đức tính trên là đáng quí, nhưng trên cương vị lãnh đạo một quốc gia mà lại lấy đó bảo là “ưu điểm” thì còn gì buồn hơn cho dân tộc? Một dân tộc có đến những bốn ngàn năm sách vở với Bia Văn Miếu, Quốc Tử Giám đầy đủ và còn sờ sờ ra đó, vậy vì nông nỗi gì mà nay đại đa số thế hệ trẻ chỉ có mỗi cái đức tính cần cù làm “bằng cấp” xin đi làm thuê gia công cho thiên hạ?

Từ ngày VN thống nhất đất nước nay đã 33 năm (1975-2008), chỉ cần 25 năm Nam Hàn đã vươn lên hàng thịnh vượng ở Châu Á sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), vậy chính quyền VN đã làm gì suốt 33 năm qua để đến nỗi nay phải bắt đầu đi nhờ cậy nhờ xin gia công cho nước ngoài trong đó có cả Hàn Quốc?

Người viết bài này từng có dịp tiếp xúc với một số vị nước ngoài làm việc tại các văn phòng đại diện thương mại, công ty kinh doanh nước ngoài ở Sàigòn. Phải nói là hầu hết nhân viên người Việt đều giỏi hơn cả “sếp” của họ không chỉ về chuyên môn mà còn cả về khả năng giao tiếp khách hàng, trình độ ngoại ngữ, sử dụng máy tính v.v… người có học như vậy cũng đành chịu chấp nhận số phận làm thuê cho những kẻ dở hơn cả mình vì chẳng còn cơ hội nào tiến thân tốt hơn, thì nói gì đến những người lao động ở các tỉnh nghèo, ít học?

Với lối suy nghĩ “kẻ cả” như trên cùng sự độc quyền quản lý tất cả các phương tiện truyền thông, hệ thống giáo dục trong nước suốt hơn nửa thế kỷ qua càng khiến đảng CSVN cảm thấy tự tin hơn mỗi khi cần nói dối ”ở VN không có ai bị bắt bớ giam cầm vì lý do tôn giáo hay bất đồng chính kiến mà chỉ có những kẻ vi phạm pháp luật…”

Sở dĩ họ mạnh miệng vì biết rất rõ nhận thức về quyền lợi chính trị của đại đa số người dân trong nước hiện nay chỉ là những con số không to tướng. Dân chúng từ chỗ quá khổ bobo, củ mì ăn thay cơm gạo được như hôm nay có cái ăn cái mặc no đủ là mừng lắm rồi, mà không đủ trình độ nhận thức để tự hỏi vì đâu mình phải khổ. Từ đó cũng chẳng cần quan tâm ai đang nắm vận mệnh đất nước và đã lèo lái dân tộc đi về đâu? Việc này đối với họ chẳng quan trọng bằng sự hấp dẫn, hay dở của những bộ phim tình cảm ly kỳ Hàn Quốc, TQ và những trò giải trí thư giãn phủ đầy các kênh truyền hình.

Những người có trình độ trong nước chẳng phải ít, nhưng lại “bận rộn” trước những cơ hội làm ăn “béo bở” mà nhều người trong họ bảo “không đâu kiếm tiền nhanh, dễ sống như ở VN” họ thừa “nước đục thả câu” lợi dụng sự tha hóa của đảng viên, quan chức câu kết làm nghèo thêm cho dân chúng và tương lai đất nước với những khoản vay nợ hàng triệu, tỷ USD. Chế độ này càng sống lâu họ càng mừng là đằng khác.

Sau một ngày vất vả lăn lộn ngoài đường kiếm sống, tối đến những kẻ có tiền tìm đến các quán nhậu, những chốn vui chơi với đủ các kiểu ăn chơi không thua gì các nước giàu có. Người ít tiền thì về nhà, vợ chồng con cái bật TiVi lên tha hồ cười “híp mắt” lại với các games show, trầm trồ khen ngợi người đẹp các cuộc thi hoa hậu, giọng ca tiếng hát truyền hình, hò hét với đội tuyển bóng đá quốc gia và cả những xúc động (đầy lầm lẫn) bởi những chương trình quyên góp từ thiện mà những đối tượng, nạn nhân nghèo khổ kia lại do chính chế độ tạo nên v.v… “hết phim” mọi người lăn đùng ra ngủ.

Một ngày “hạnh phúc” của đại bộ phận dân chúng VN hiện nay là thế!

Nhưng đối với các tôn giáo, chuyện “che mắt thế gian” này không còn dễ dàng chính vì vậy mà họ sợ tôn giáo, từ sợ đi đến thù nghịch chẳng còn mấy bước. Có thể nhắm mắt nói mà chẳng sợ sai, những người cộng sản đứng trước các tôn giáo họ có hai điều sợ nhất đó là:

1. Sợ bị tranh giành quyền lực:

Những tôn giáo lớn, như ở VN là Phật giáo và Công Giáo, dưới cái nhìn của những kẻ vô thần chẳng tin có Chúa, Phật nào hết, đối với họ tôn giáo chỉ là loại tổ chức xã hội có dạng hơi “đặc biệt” nhưng rất có thế lực. Sở dĩ vậy vì với bản chất tham lam quyền lực nên hay “ suy bụng ta ra bụng người” nghĩ ai cũng tham như họ.

Với đạo công giáo, số tín hữu những trên sáu triệu là con số quá lớn so với số đảng viên cộng sản của họ, cách tổ chức của giáo hội lại rất qui củ, có trên có dưới với kinh kệ giáo luật đầy đủ (nhưng có lẽ cũng bị xem giống như điều lệ đảng?). Sinh hoạt tôn giáo nề nếp đều đặn, tiếng nói của các vị chủ chăn được nhiều người lắng nghe, thêm vào đó là sự tuân phục của giáo hội đối với Tòa Thánh Vatican mà ảnh hưởng của Đức Thánh Cha trên trường quốc tế lại lớn v.v… tất cả những điều này gộp lại chẳng khác gì những “cái gai” với những chính thể độc tài.

Mặc dù chẳng bao giờ họ nói thẳng ra “sự khó chịu” về sự hiện diện của những tôn giáo lớn, nhưng sự ganh ghét ấy lại không khó nhận diện qua cách chính quyền “đánh phá” và chia rẽ các tôn giáo trong nước trước giờ ra sao?.

Tất nhiên đây chỉ là hậu quả của lối suy nghĩ “tự kỷ ám thị”, bản thân họ xấu nên hay đa nghi như Tào Tháo, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù đang “diễn biến hòa bình” và “căn bệnh hoang tưởng” này chỉ thấy xuất hiện ở những chính thể độc tài như VN,TQ, Miến Điện, Bắc Hàn v.v… bởi nếu chủ trương của Giáo hội Công giáo La Mã xem quyền lực thế gian là quan trọng, thì với tuổi đời hàng ngàn năm, đạo công giáo ắt hẳn đã trở thành quốc giáo tại nhiều quốc gia Châu Âu hằng ngàn năm nay tương tự như Hồi giáo đối với vùng Trung Đông.

Sự thiếu cởi mở, thậm chí có những lúc căng thẳng trong quan hệ giữa nhà nước và đạo công giáo bấy lâu không đơn giản vì khác biệt giữa vô thần và hữu thần như nhiều người vẫn nghĩ, mà chính là do sợ bị tôn giáo tranh giành ảnh hưởng. Ngay trong nội bộ phe cộng sản, tuy cùng một ý thức hệ nhưng vẫn luôn có những sự “lủng củng” mà nguyên nhân không gì khác ngoài tranh giành quyền lực lẫn nhau. Việc cho phép đảng viên mở công ty tư nhân, đồng nghĩa với việc đảng thừa nhận “tư bản bóc lột” từ xấu xa biến thành tốt đẹp, là loại “lỗi hệ thống” nghiêm trọng về mặt lý thuyết chủ nghĩa cộng sản, nhưng vẫn được xem như không có chuyện gì “ầm ĩ” thì vô thần hay hữu thần chẳng quan trọng gì với họ, miễn làm sao còn tiếp tục cai trị quốc gia.

Vì vậy chừng nào VN còn bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cộng sản thì dù chính quyền có “đổi mới” đến đâu, có gia nhập hết các tổ chức thương mại lớn hơn WTO nếu còn tổ chức nào như thế, tôn giáo và nhân quyền ở VN sẽ vẫn còn là những đề tài nóng không bao giờ dứt.

2. Sợ tôn giáo nhận ra bản chất xấu của họ:

Lý do thứ 2 này mới đáng nói kỹ hơn vì trước giờ được ít người đề cập đến và cũng không dễ gì nhận ra nó. Vi trùng chỉ có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi mà không thể với mắt thường, tương tự những giá trị “thật – ảo” trong cuộc sống chỉ hiện ra rõ hơn dưới chiếc “kính lúp” tôn giáo.

Vẫn là sự dối trá nhưng theo thời gian nó đã “tiến bộ” hóa thân từ thô thiển trở thành tinh vi, đẳng cấp dối trá thời sau cao hơn thời trước. Nay đến thời XHCN đã được nâng lên hàng “thượng thừa” phải gọi là “trí trá”, vì là sản phẩm của những kẻ có ăn học nhưng cái tâm họ lại thiếu lương thiện, như ông bà xưa bảo “có tài mà thiếu đức” họ không ngần ngại đánh đổi hết ‘ruột gan” để lấy bổng lộc vinh hoa phú quí. Để “trả ơn” đảng bảo làm gì họ làm theo nấy, cố moi hết kiến thức học hành ra để nghĩ cách phục vụ bất kể luận điệu đó là sai miễn là bảo vệ được chủ.

Nói về sự trí trá của cộng sản với Thiên Chúa Giáo mà không nhắc đến một sự cố “Thuyết tiến hoá” (1860) của nhà khoa học Charles Darwin (1809-1882) bị những kẻ vô thần đạo diễn làm cho méo mó đi, có lẽ là thiếu sót thậm chí có khi còn bị hiểu là vì sợ khoa học mà phải né tránh. Ngoài ra đây còn là sự “đấu trí” giữa đức tin của giáo hội và các lý thuyết gia các chính thể cộng sản mà các tín hữu thời nay có lẽ cũng cần biết sự kiện trí trá có tầm vóc lịch sử này.

Khi cho ra đời quyển "Nguồn gốc muôn loài" (The Origin of Species) vào năm 1860, Charles Darwin cho rằng có một mối dây liên hệ về giống nòi giữa con người và loài vượn. Tuyên bố này lập tức đã gây nên một cú “sốc” lớn cho Đạo Thiên Chúa chúng ta thời ấy vì nó hoàn toàn đi ngược lại tín điều con người do Thiên Chúa dựng nên (cũng tương tự như những gì đã diễn ra với giáo hội vào thế kỷ XVI khi nhà thiên văn Ý Galileo Galilei tuyên bố khám phá ra trái đất quay quanh mặt trời).

Thuyết tiến hóa sau đó được những các lý thuyết gia cộng sản tiếp tục khai thác như một “báu vật” để biện minh cho sự đáng tin cậy của “chủ nghĩa duy vật” với họ Chúa Trời, Thần Linh chỉ là sản phẩm do trí tưởng tượng loài người khéo nặn ra, rằng con người cũng chỉ ngang hàng với bao loài vật khác nhưng nhờ sớm thích nghi với thiên nhiên mà phát triển nhanh hơn những con vật khác v.v...

Mục đích của bài viết này không để bàn cãi về “Thuyết tiến hóa” lẫn “Duy vật Chủ nghĩa” mà để phản bác lại kiểu diễn dịch “lấn sân” thô thiển đem “râu khoa học cắm vào cằm tôn giáo” cũng như hậu quả tệ hại của việc lợi dụng danh nghĩa khoa học ấy dưới các chính thể cộng sản ra sao?

Nếu đồ thị hóa lịch sử nhân loại về mặt thời gian, đó sẽ là một đường thẳng có hai cực vô định mang các giá trị theo toán học là –x và +x vì cho đến nay khoa học vẫn không thể biết chính xác trái đất này có từ bao giờ và bao giờ sẽ kết thúc (cũng như từ đâu đến và sẽ đi về đâu?). Tất cả các công trình nghiên cứu về nguồn gốc loài người cho đến nay chỉ là giả thuyết, ngoại trừ một điều chắc chắn duy nhất ai cũng biết, đó là nhân loại đã đi từ không đến có, từ những cái vô định đến những cái được xác định hiện nay. Vì vậy khi làm lịch các nhà khoa học phải chọn một mốc thời điểm nào đó để làm mức 0 (zéro) và người ta đã chọn năm sinh của Chúa Giêsu gọi đó là “Công Nguyên”. Càng lui về trước CN càng rất khó xác thời điểm nên “khoảng tối” mang những giá trị âm là hợp logic và dễ hiểu.

Lùi lại “hiện trường” thời đồ đá cũ khoảng 200 ngàn năm trước. Những ai từng có dịp tìm hiểu hay xem qua hình ảnh những di tích cổ được tìm thấy của thời kỳ này chắc hẳn đều không khỏi kinh ngạc, bởi sự “chẳng giống ai” của các vật dụng kiếm sống của con người thời ấy. Nếu không có sự xác nhận của các nhà khảo cổ, khó ai lại nghĩ đó là dụng cụ tạo lửa, giáo mác, dao, rựa dùng để săn bắt thú rừng v.v…nhưng cũng vào thời ấy ăn lông ở lỗ ấy con người đã biết thờ cúng thiên nhiên, sấm chớp được xem là dấu hiệu nổi giận của thần linh và nhiều dụng cụ thờ cúng có khắc hình tượng cũng được tìm thấy.

Điều kiện hình thành tín ngưỡng của nhân loại trong hoàn cảnh “nền văn minh” ảm đạm là vậy, mà ngày nay ai đó lại đòi hỏi tín ngưỡng phải ăn khớp với những khám phá của khoa học thế kỷ 19, 20 thì liệu đó có đúng là tư duy của những nhà khoa học chân chính hay được nghĩ ra bởi những cái đầu tầm thường và rỗng tuếch?

Đạo Thiên Chúa mặc dù hình thành sau đó rất lâu, vào lúc con người đã biết ghi chép thời Tổ Phụ Abraham, khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên. Gọi là “mới” so với người tiền sử nhưng cũng đã cách nay những 4 ngàn năm. Vài trăm năm cũng đã đủ làm thay hình đổi dạng một lục địa, vậy 4 ngàn năm trước “văn minh” thời Tổ Phụ Abraham ra sao?

Nhớ lại lịch sử VN, đây cũng là khoảng thời gian ra đời của nước Văn Lang và được sử sách Việt hiện nay mở đầu bằng chuyện “Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ một trăm người con, 50 con theo mẹ lên núi 50 con theo bố xuống biển v.v…”

Ngày nay ai cũng biết đó cũng chỉ là những chuyện… “phịa” 100% nhưng bao đời nay các sách giáo khoa ở VN đều dạy nguồn gốc của dân tộc mình là nòi giống “con Rồng cháu Tiên” như thế và những truyền thuyết loại này cũng chẳng thiếu ở nhiều quốc gia khác, “Ngàn lẻ một đêm” của xứ Ả Rập là thí dụ nhưng có nhà khoa học nào lại đi đòi hỏi tính xác thực của những loại truyền thuyết ấy trong giáo dục? Vậy với ý đồ gì những người theo chủ thuyết vô thần lại mượn danh nghĩa khoa học qua thuyết tiến hoá để đả kích chuyện “Adam và Eva là do Thiên Chúa dựng nên từ đất sét” của người có tín ngưỡng?

Niềm tin ấy không đơn giản như những loại truyền thuyết có tính cục bộ của trần gian như trên, mà mang một ý nghĩa rất sâu xa. Chuyện về “Adam – Eva” trong cựu ước mới chỉ là một phần của tổng thể niềm tin Thiên Chúa là chủ vũ trụ, được hình tượng hóa theo cách nghĩ của thời Tổ Phụ Abraham, để giải thích về sự hiện diện của loài người. Bởi nếu mọi người ai cũng biết rõ ở hai đầu cực của trục lịch sử nhân loại đã và sẽ ra sao, chắc chắn chẳng ai còn cần đến tôn giáo và cũng không thể do ngẫu nhiên mà ai đó đã nghĩ ra câu chuyện Adam – Eva nếu không được mặc khải từ Thiên Chúa, vì cho mãi đến tận ngày nay với một nền khoa học được cho là nguyên tử hiện đại nhưng con người vẫn còn đang bế tắc trong việc tìm hiểu cội nguồn của mình.

Đời người là quá ngắn ngủi so với tuổi trái đất và vũ trụ, sự hiện diện của kiếp người trên thế gian chỉ lâu cỡ… vài ngày “ăn nhờ ở đậu” trong một tòa nhà nào đó của khách lữ hành. Anh ta không thể nào biết cả móng lẫn nóc căn nhà ấy được xây ra sao vì chẳng phải là người xây nên nó, nhưng phải có tin là nó được làm an toàn thì mới dám “chui” vào đó để ở. Người có đạo cũng giống như vị khách lữ hành ấy, đức tin của họ không bị lệ thuộc nhiều vào việc có học nhiều hay học ít mà nhờ ơn thiêng liêng, kiến thức hay kinh nghiệm sống là những cơ hội quí báu cho họ nhận ra thêm giá trị đức tin của họ.

Mặc dù khoa học ngày nay đã rất tiến bộ nhưng ngay chính trái đất là nơi khoa học sinh ra mà nó cũng chưa khám phá hết, nói chi đến Thái dương hệ - giải Ngân Hà, Thiên Hà xa cả trăm năm tốc độ ánh sáng? Một khi khoa học còn đang phải “vất vả” đi tìm hiểu những cái đã có sẵn hàng triệu năm trước, dù tin hay không có Đấng nào đó dựng nên trời đất, nền khoa học ấy chỉ đáng là học trò trước vũ trụ này. Sống giữa khoảng không mênh mông đầy bí hiểm và một thế giới đầy rẫy những điều thật giả lẫn lộn, con người tìm đâu ra chỗ dựa về tinh thần cho cuộc đời ngắn ngủi này ngoài niềm tin tôn giáo?

Trong lĩnh vực khoa học có quốc gia nào trên thế giới hiện nay vượt qua nước Mỹ về khoa học vũ trụ, vậy mà trên mọi đồng Dollar quốc gia này thể hiện cho sức mạnh nhiều mặt của họ đều được in hàng chữ “In God We Trust”. Không biết các khoa học gia, chính trị gia cộng sản học được gì từ hàng chữ đơn giản trên những tờ USD mà họ đang cẩn thận cất giữ chúng trong túi riêng hay két sắt?

Ngày nay công trình nghiên cứu của Charles Darwin không còn ai nghi ngờ gì về giá trị của nó, chỉ có điều không may là “thuyết tiến hóa” đã có thời bị cộng sản khai thác triệt để, biến nó thành công cụ chế giễu và đàn áp tôn giáo. Càng trí thức càng dễ bị “dính đòn”, do tâm lý người học cao thường chỉ muốn tin vào những cái có “tính khách quan khoa học” mà tên tuổi sáng chói của Charles Darwin lại quá đủ đảm bảo cho điều đó. Nhưng họ có ngờ đâu chấp nhận lối suy diễn sai lệch ấy của chủ nghĩa vô thần, duy vật là đồng nghĩa với việc tự hạ cấp chính bản thân mình, đang từ hàng quí tộc xuống làm “phó thường dân”, từ hàng “sinh linh” trong tôn giáo bị giáng xuống thành… giai cấp súc vật trong các xã hội cộng sản.

Nhưng vì lý do gì các lãnh đạo cộng sản lại thích xem con người giống loài vật hơn việc tôn là sinh linh?

Thưa, chính vì nó phù hợp với sách lược dùng đấu tranh vũ lực để giải quyết mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp trong xã hội do cộng sản đề xướng. Nhưng khi dùng vũ lực, tức súng đạn giáo mác cảnh “máu đổ đầu rơi” xảy ra là tất yếu thì họ lại sợ bị quần chúng phản đối là trái với đạo lý vì thế họ phải làm sao thay đổi quan niệm nhân phẩm biến thành “vật phẩm” giống như loài thú hoang “tao không cắn mày trước thì mày cũng sẽ nuốt tao” chỉ còn biết quyền lợi chung quanh miếng ăn thì họ mới dễ huy động cái họ gọi là “vùng lên hỡi khắp nô lệ ở thế gian…”.

Dưới đây là những dẫn chứng từ lịch sử:

Người Pháp thua trận Điện Biên Phủ nhiều người bảo do bất ngờ, vì sách vở quân sự thế giới xưa nay chẳng thấy đâu dạy chiến thuật như Việt Minh làm: tháo rời những khẩu trọng pháo ra, vác nó lên đỉnh đồi cao bằng sức người ráp lại để nã đạn xuống đầu họ ở giữa lòng chảo. Nhưng đó là lý lẽ của những nhà quân sự.

Nếu nhìn trận Điện Biên Phủ bằng con mắt của người có đức tin chúng ta có thể nhận ra thêm họ thua còn vì đã “đụng” phải đối thủ quá bất nhân, xem mạng sống con người chỉ là đồ cỏ rác! Bằng chứng là Việt Minh đã “nướng” tổng cộng hết 4.020 sinh linh và 9.118 người khác bị thương, trong lúc người Pháp mặc dù thua trận nhưng tổn thất lại thấp hơn rất nhiều, chỉ 1.747 người chết, 5.240 người bị thương và dù còn đến 10.000 quân, người Pháp đã chấp nhận đầu hàng để binh lính khỏi chết thêm nhưng nếu là Việt Minh chắc chắn họ đã không làm vậy.

Câu chuyện về “anh hùng” Phan Đình Giót và Tô Vĩnh Diện trong trận đánh Điện Biên Phủ “lấy thân mình lấp lỗ châu mai” cũng giống như chuyện em bé đuốc sống Lê Văn Tám ở kho xăng Nhà Bè, rõ ràng là những người ảo nhưng được dựng nên phục vụ cho ý đồ đen tối “xả thân vì nước” của chính quyền Việt Minh thời ấy. (Những năm gần đây vì đã nhận ra tính chất phi nhân của huyền thoại sợ bị lên án mà đảng CSVN chẳng bao giờ cho sách báo nhắc đến, rất có thể sách giáo khoa tiểu họ sau lần cải cách hiện nay sẽ loại bỏ chúng để các thế hệ sau chẳng còn ai nhớ gì về tội ác của họ?)

Trong cuộc chiến tiếp theo ở miền Nam, đã có rất nhiều sư đoàn, trung đoàn quân đội chính qui miền Bắc bị tiêu diệt toàn bộ trong những trận chiến đẫm máu tại chiến trường Huế, Khe Sanh Quảng Trị, Hạ Lào, Bình Long An Lộc v.v… từ năm 1968 đến 1972 mà mục tiêu của phe cộng sản khi ấy là gây áp lực với người Mỹ bằng mọi giá trên chiến trường để đổi lấy thế thượng phong của họ trên bàn đàm phán Paris và họ cũng đã nhẫn tâm làm được điều này bằng sự đánh đổi sinh mạng của vài hàng chục ngàn binh lính vô tội.

Tổng kết chiến tranh VN 1954-1975, VNCH và các nước đồng minh bị chết khoảng 300 ngàn nhưng thiệt hại về nhân mạng của phía cộng sản miền Bắc cao gấp bốn lần với trên 1,12 triệu người.

Việc xem rẻ mạng sống con người tại các quốc gia trong khối cộng sản cũng tương tự. Năm 2007 vừa qua đích thân tổng thống V.Putin đến Butovo để dự lễ tưởng niệm hơn 20 ngàn người được đã bị hành quyết tại trại giam này chỉ trong khoảng thời gian ngắn 8/1937 - 10/1938 và đây mới chỉ là một trong hàng trăm trại tù kiểu này ở Liên Xô.

Ở Trung quốc dưới thời Mao Trạch Đông theo quyển "Mao: The untold story" của Jung Chang và Jon Halliday (Bà Jung Chang là người gốc Hoa, có Cha bị giết trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa do Mao chủ xướng) hai người đã bỏ ra chục năm trời, dầy công cất bước, đặt chân đến mọi nơi để gặp và phỏng vấn các nhân chứng, nạn nhân của chế độ độc tài Mao, để thu lượm các chi tiết chung quanh Mao Trạch Đông. Tác giả ước lượng rằng con số người Trung Quốc bị giết hại dưới thời Mao lên đến 70 triệu người. Đây chỉ là tính đến con số người bị bức tử, hãm hại chết, chứ chưa tính đến những con số tử vong trong các cuộc chiến.

Còn theo ước tính của Ủy ban tư pháp Thượng viện Mỹ con số nạn nhân dưới thời kỳ Mao Trạch Đông (1946 – 1965) vào khoảng 60 triệu nhưng Liên Xô thì lại đưa ra con số thấp hơn nhiều chỉ khoảng 30 triệu người

Nhìn vào tấm gương vĩ đại hai bậc “đàn anh” của chính quyền các ông Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn… mọi người Việt đều có quyền hỏi chính quyền Hà Nội hiện nay về con số nạn nhân chính xác ở VN dước chế độ cộng sản từ 1945 đến nay 2008 là bao nhiêu? Bởi không ai dám chắc trong dòng họ, bà con ruột thịt của mình sống rải rác khắp 3 miền đã không từng là nạn nhân của họ.

Tóm lại, chỉ có tôn giáo (đúng nghĩa) với việc đề cao các giá trị thiêng liêng và không lấy bả vinh hoa phú quí trần gian làm mục tiêu, mới có thể giúp con người nhận ra bản chất thật của các hiện tượng, những trào lưu xã hội để biết tính thiện ác của chúng ra sao?

Và đó chính là những điều đã khiến cộng sản từng lo sợ nên tìm mọi cách, kể cả việc lợi dụng các công trình nghiên cứu khoa học khách quan, để triệt hạ tôn giáo.

Alfonso Hoàng Gia Bảo