CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN - năm B

ANH EM LÀ CHỪNG NHÂN CỦA THẦY

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Qua những hình ảnh, lễ Thăng thiên diễn tả việc Chúa Kitô phục sinh từ nay sống trong thế giới của Thiên Chúa mà người ta thường gọi trong ngôn từ tôn giáo là trời (bài đọc 1 và Tin Mừng). Vào thời Đức Giêsu, để diển tả sự vĩ đại, vinh quang của Thiên Chúa, con người không thể đạt tới được, người Do thái dùng hình ảnh của chiều cao: Chúa ở trên cao, ở trên trời. Thiên Chúa được gọi là Đấng Tối Cao (Lc 1,76; Cv 16,17). Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta cũng tuyên xưng: “Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha.”

Điều quan trọng đối với các Kitô hữu tiên khởi cũng như đối với chúng ta hôm nay, không phải ở việc muốn biết Đức Giêsu lên trời như thế nào, nhưng là tận hiểu ý nghĩa sự ra đi của Người.

Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha. Từ nay, Chúa Kitô phục sinh vắng mặt về thể hình, không ai có thể thấy hoặc nghe tiếng Người nữa. Tuy nhiên, Người luôn hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Sự hiện diện vô hình của Người, chỉ có con mắt đức tin mới thấy được.

Lễ Thăng Thiên là sự kết thúc công cuộc truyền giáo của Đức Giêsu thành Nazarét, và là khởi đầu thời gian của Giáo Hội. Dĩ nhiên, giai đoạn mới này luôn là giai đoạn của Chúa Kitô, vì tất cả đều hướng về Người, cũng như Người là đích điểm của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng đó cũng là thời kỳ của Giáo Hội và các môn đệ để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô và cho Tin Mừng : “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8). Đó là ý nghĩa mọi hoạt đồng truyền giáo của Giáo hội. Trước khi lên trời, Đức Kitô giao phó cho tất cả các môn đệ, tức là tất cả Kitô hữu trên toàn cầu, sứ mạng tiếp tục công trình của Người cho đến ngày tận thế.

Chúng ta hãy nghe câu chuyện có thật và rất cảm động sau đây.

Nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Giacomo Puccini (1858-1624) đã viết nhiều vở nhạc kịch lừng danh. Năm 1922, lúc ông được 64 tuổi, thì ông mắc bệnh ung thư. Dầu vậy, ông vẫn quyết định hoàn thành vở nhạc kịch cuối cùng của mình, tức vở Turandot mà hiên nay nhiều người xem như vở nhạc kịch hay nhất của ông. Ông miệt mài làm việc ngày đêm. Nhiều người ép ông nghỉ ngơi, vì theo họ nghĩ, ông không thể nào hoàn tất nổi vở nhạc kịch ấy. Khi thấy căn bệnh ngày càng nặng hơn, Puccini nói với các đệ tử: “Nếu ta không hoàn tất được vở Turandot thì các trò hãy cố gắng hoàn tất nó cho ta.”

Vào năm 1924, Puccini được học trò đem đến Bruxelles để giải phẫu, nhưng hai ngày sau cuộc giải phẫu đó, thì ông qua đời. Trở về Ý, các đệ tử của Puccini nghiên cứu kỹ lưỡng vở Turandot và tiếp tục viết cho đến lúc hoàn thành trọn vở nhạc kịch đó.

Hai năm sau, vở nhạc kịch được trình diễn lần đầu tiên tại nhà hát lớn La Scala thuộc thành phố Milan, do Arturo Toscanini, người học trò ưu tú của Puccini điều khiển. Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến khúc nhạc mà Puccini buộc phải ngừng bút. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt Toscanini. Anh cho giàn nhạc dừng bản nhạc kịch lại, đặt cây gậy điều khiển xuống rồi quay về khán thính giả và nói lớn: “Sư phụ chúng tôi đã viết được đến đây, rồi người qua đời.”

Lúc đó toàn thể nhà hát đều im bặt, không cử động. Sau vài phút, Toscanini cúi xuống cầm gập điều khiển lên, quay về cử tọa mỉm cười qua dòng lệ rồi thốt lên: “Nhưng các đệ tử đã hoàn tất công việc của người”. Vở Turandot vừa dứt thì toàn thể khán thính giả vỗ tay ầm ầm như sấm vang. Những người có mặt lúc đó không thể nào quên được giây phút ấy.

Câu chuyện sáng tác vở nhạc kịch Turandot của Puccini có nét rất giống với công việc truyền giáo của Giáo hội chúng ta.

Trước khi su phụ Giêsu hoàn tất công trình lập nước Thiên Chúa trên trần gian, thì Người lên trời. Nhưng trước đó, Người đã yêu cầu các môn đệ hoàn tất việc ấy y như Puccini đã yêu cầu các đệ tử hoàn tất vở nhạc kịch Turandot.

Trước khi lên trời, Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Công việc của Puccini được một vài đệ tử hoàn tất trong vòng ít năm, còn công việc của Đức Giêsu cần đến rất nhiều thế hệ mới có thể hoàn tất được; và đó không phải chỉ là việc của vài môn đệ, mà là tất cả các môn đệ thuộc mọi thời đại. Thánh Phaolô có nói: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Co 9,16).

Nhưng truyền giáo không chỉ là công việc của các Linh mục và Tu sĩ mà là của tất cả các Kitô hữu. Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta có bổn phận cộng tác vào việc xây dựng và mở mang Nước Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể rao giảng Tin Mừng ngay trong gia đình, trong khu phố và trong cộng đoàn chúng ta. Mỗi người đều có thể là sứ giả Tin Mừng, thợ xây hoà bình và là người gieo niềm vui và hy vọng.

Ngày xưa, chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Đức Giêsu đã làm phép lạ cho hơn năm ngàn người ăn no nê, thì bây giờ Chúa cũng muốn và cần đến sự cộng tác, tuy nhỏ bé và hạn chế, của mỗi người chúng ta hầu hoàn thành những kỳ công của Người.


Lm.Giuse Vũ Thái Hòa