Hạnh các Thánh 16/5


16/5 – Thánh Margaret Cortona (1247-1297)


Margaret sinh trong một gia đình nông dân ở Laviano, Tuscany. Mẹ mất khi Margaret mới 7 tuổi. Bà sống với mẹ kế, khổ quá nên nên bà không thể sống chung. Bà sống không hôn thú với Arsenio 9 năm và có một con trai. Thời gian đó, bà nghi ngờ tình trạng của mình. Giống thánh Augustinô chút gì đó, bà cầu nguyện cho sự khiết tịnh, nhưng bà không khiết tịnh.

Một hôm, bà đang chờ Arsenio thì có con chó đi qua. Nó dẫn bà vào một khu rừng và bà thấy Arsenio bị giết chết ở đó. Điều này khiến bà sống cuộc đời ăn năn đền tội. Bà đưa con trai về Laviano, nhưng không được mẹ kế chấp nhận. Hai mẹ con lại tới Cortona, rồi con trai bà đi tu dòng.

Năm 1277, sau khi trở lại được 3 năm, Margaret vào Dòng Ba Phanxicô. Theo hướng dẫn của linh mục giải tội, bà sống hy sinh, cầu nguyện và đền tội tại Cortona. Tại đây, bà mở một bệnh viện và lập một nhóm Dòng Ba nữ. Noi gương thánh Phanxicô, bà sống khó nghèo và khiêm nhường, tận hiến cho Thánh Thể và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Bà rất bác ái và làm cho nhiều tội nhân trở lại nhờ lời khuyên và sự gợi hứng của bà. Bà được phong thánh năm 1728.

17/5 – Thánh Paschal Baylon, Tu sĩ (1540-1592)


Ngài sinh tại Baylon, Tây Ban Nha. Thời thánh Paschal, hoàng đế Tây Ban Nha ở Tân Thế Giới có quyền lực cao nhất, sau đó Pháp và Anh giảm sức ảnh hưởng này. Thế kỷ 16 được gọi là Thời Hoáng Kim (Golden Age) của Giáo hội ở Tây Ban Nha, vì đất nước này sinh ra thánh Inhaxiô Loyola, Phanxicô Xaviê, Têrêsa Avila, Gioan Thánh giá, Phêrô Alcantara, Phanxicô Sôlanô và Salvator Horta.

Cha mẹ của Paschal nghèo khó nhưng sùng đạo. Từ 7 tới 24 tuổi, ngài chăn chiên và sống khổ hạnh. Ngài cầu nguyện ngay khi đang làm việc và luôn để ý tiếng chuông nhà thờ khi dâng Mình Máu Thánh trong Thánh lễ. Ngài rất chân thật. Có lần ngài đền trả cho chủ những gì chiên ngài chăn làm hư hại.

Năm 1564, ngài vào Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng Phanxicô) và chuyên cần sống đền tội. Ngài được chọn đi học làm linh mục nhưng ngài xin được làm tu sĩ bình thường. Nhiều lần ngài làm người gác cổng, nấu ăn, làm vườn và hành khất chính cho nhà dòng.
Ngài cẩn trọng giữ lời khấn khó nghèo. Ngài không bao giờ lãng phí thức ăn hoặc bất kỳ thứ gì dành cho các thầy dùng. Khi ngài giữ cổng, ngài chăm sóc những người nghèo đến xin nhà dòng, ngài có tiếng là đại lượng. Đôi khi các tu sĩ khác phải hạn chế tính hào phóng của ngài!

Ngài dành thời gian để cầu nguyện trước Thánh Thể. Lúc đó nhiều người nhận thấy ngài là người khôn ngoan. Sau khi ngài qua đời và an táng, người ta đến mộ ngài để cầu nguyện rất đông, nhiều phép lạ được coi là của ngài ngay sau đó. Năm 1690, ngài được phong thánh. Năm 1897, ngài được tôn phong làm bổn mạng các Đại hội Thánh Thể.

18/5 – Thánh Gioan I, Giáo hoàng Tử đạo (qua đời năm 526)


Hoàng đế ủng hộ tà thuyết Arian (không tin thiên tính của Chúa Giêsu) đã cai trị Ý 30 năm, dù hoàng đế này vẫn đối xử với người Công giáo bằng sự khoan hồng. Chính sách của hoàng đế đã thay đổi vào khoảng thời gian Hồng y trẻ được chọn làm giáo hoàng với danh hiệu Gioan I.
Khi hoàng đế Đông phương bắt đầu dùng các biện pháp mạnh đối với những người theo tà thuyết Arian, ông buộc Gioan dẫn đầu phái đoàn tới Đông phương để làm giảm nhẹ các biện pháp chống lại những người theo dị giáo.

Khi ĐGH Gioan I trở lại Rôma, ngài thấy hoàng đế bắt đầu nghi ngờ tình bạn của ngài với đối thủ Đông phương.

Trên đường về, ĐGH Gioan I bị bỏ tù khi đến Ravenna vì hoàng đế nghi ngờ ngài thông đồng lật đổ ngai vàng của ông. Sau khi bị tù, ĐGH Gioan I qua đời vì bị hành hạ dã man.

19/5 – Thánh Theophilus Corte, Linh mục (1676-1740)
Nếu chúng ta trông mong các thánh làm những điều lạ và để lại cho chúng ta nhiều câu nói đáng giá, chúng ta sẽ thất vọng về thánh Theophilus. Mầu nhiệm của hồng ân Chúa trong mỗi cuộc đời lại có một vẻ đẹp riêng biệt.

Theophilus sinh tại Corsica, trong một gia đình giàu có và quý tộc. Khi còn trẻ, ngài vào Dòng Phanxicô và yêu thích sống cô tịch để cầu nguyện. Sau khi hoàn tất việc học, ngài thụ phong linh mục và được bổ nhiệm đến một nhà tĩnh tâm (retreat house) gần Subiaco. Được cảm hóa nhờ đời sống nghiêm khắc của Dòng Phanxicô ở đó, ngài thành lập nhiều nhà tĩnh tâm khác ở Corsica và Tuscany. Qua nhiều năm, ngài nổi tiếng về tài giảng thuyết và nỗ lực truyền giáo.

Dù hay ốm đau, ngài vẫn phục vụ Chúa trong việc giải tội, giúp bệnh nhân. Ngài qua đời ngày
17/6/1740, và được phong thánh năm 1930.

20/5 – Thánh Bernarđinô Siêna, Linh mục (1380-1444)


Đa số các thánh chịu nhiều chống đối, thậm chí còn bị hành hạ. Ngược lại, thánh Bernarđinô có vẻ giống một “máy phát điện người” (human dynamo) đảm nhận các nhu cầu của thế giới.

Ngài là nhà giảng thuyết đặc biệt nhất thời đó, ngài đi khắp nước Ý, trấn an các thành phố bị tan tành vì xung đột, thu hút tà giáo, thu hút đám đông 30.000 người, ngài theo lời khuyên của thánh Phanxicô đi rao giảng về “nhân đức và thói xấu, hình phạt và vinh quang”.

So sánh với thánh Phaolô, thánh Bernarđinô có trực giác nhạy bén về các nhu cầu của thời đại, cùng với sự thánh thiện và năng lực. Ngài hoàn thành tất cả dù giọng nói ngài khàn và yếu, và ngài rất sùng kính Đức Mẹ.

Lúc 20 tuổi, bệnh dịch hoành hành Siêna. Có ngày có 20 người chết trong bệnh viện. Thánh Bernarđinô tình nguyện điều hành bệnh viện, với sự hỗ trợ của các thanh niên khác chăm sóc các bệnh nhân trong 4 tháng. Ngài không bị nhiễm bệnh dịch nhưng quá kiệt sức nên bị sốt trong vài tháng. Ngài dành cả năm chăm sóc người dì (coi như mẹ, vì cha mẹ ngài mất khi ngài còn nhỏ). Khi người dì mất, ngài cầu xin được biết Ý Chúa muốn đối với ngài.

Lúc 22 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục 2 năm sau. Gần 12 năm sống trong cô tịch và cầu nguyện, nhưng ngài cảm thấy có ơn gọi đi rao giảng. Ngài luôn đi bộ, đôi khi giảng hằng giờ ở một nơi, rồi lại tiếp tục đến nơi khác.

Ngài nổi tiếng về lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu, di sản của ngài là biểu tượng IHS, viết tắt 3 từ theo tên Chúa Giêsu bằng tiếng Hy Lạp, bằng chữ Gothic trên một mặt nhật sáng chói (a blazing sun). Từ này thay thế các biểu tượng dị đoan (superstitious symbols) của thời đó, kể cả huy hiệu (insignia) của các bè phái (chẳng hạn Guelphs và Ghibellines). Lòng sùng kính này lan truyền, và biểu tượng này bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, các gia đình và các tòa nhà chung. Sự chống đối nổi lên từ những người cho đó là sự đổi mới nguy hiểm (dangerous innovation). Người ta kiện cáo ngài 3 lần, nhưng ngài đã chứng minh bằng sự thánh thiện, sự chính thống và sự thông minh.

Ngài nhấn mạnh sự học sâu hiểu rộng và học hỏi thêm về thần học và giáo luật. Khi ngài khởi xướng, lúc đó có 300 tu sĩ trong cộng đoàn. Ngài vẫn đi rao giảng trong 2 năm cuối đời, và ngài qua đời trên đường đi rao giảng.


Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)