-
MỘT SERIES TRUYỆN CỦA TRẠNG QUỲNH
?ầu to bằng cái bồ
Quỳnh khi còn bé độ bảy tám tuổi, chơi nghịch đã khác ngư?i, lấy tàu chuối làm c?, lá sen làm l?ng, Quỳnh lại tinh ranh; trẻ con trong làng mắc lừa luôn.
Một hôm tr?i tháng tám, sáng trăng, Quỳnh chơi với lũ trẻ ở sân, bỗng Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một ngư?i đầu to bằng cái bồ.
Lũ trẻ tưởng thật, tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi bảy, tám vòng quanh sân, mệt thở không ra hơi. Quỳnh thấy thế bảo:
- ?ứng đợi đây, tao đi châm lửa soi cho mà xem.
Lũ trẻ sợ quá, không dám xem, chỉ những đứa lớn ở lại. Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ng?n đèn, bảo lũ trẻ:
- Kìa! Trông vào vách kia kìa! Ông to đầu đã ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh x?, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu đ?n. Quỳnh chạy vào trong buồng đóng kín cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.
Dê đực chửa
Quan tư thiên xem thiên văn, thấy v? địa phận tỉnh Thanh có một ngôi sao sáng, chắc ở đấy có ngư?i tài, nhưng không biết làng nào, mới tâu vua. Vua giao cho đinh thần xét. Có một vị tâu:
- Xin tư cho tỉnh thần Thanh Hoá sức mỗi làng phải tiến một con dê đực chửa, hạn một tháng, không có thì trị tội.
Trát v? đến làng, các cụ kỳ lão lo sốt vó, nhất là ông thân sinh ra Quỳnh lại càng sợ, ông ta là huynh thứ trong làng, tất phải tội trước. Ông ta v? phàn nàn nhà vua đòi những chuyện oái oăm.
Quỳnh thấy bố buồn rầu mới h?i:
- Hôm nay thầy có việc gì mà không được vui?
Ông bố đương bực mình li?n mắng:
- Việc làng, việc nước, trẻ con biết gì mà h?i?
Quỳnh nhất định h?i cho ra, ông bố phải kể thực cho nghe. Quỳnh nghe xong, thưa:
- Con tưởng việc gì, chứ việc ấy thì thầy không phải lo! Nhà vua bắt mua một con, chứ bắt mua mư?i con cũng có. Xin thầy cứ ra nhận l?i với làng, chồng cho con trăm quan ti?n để con đi mua. Không thì mình chịu tội cho cả làng.
Ông bố thấy con nói thế, lạ lắm, nhưng nghĩ bụng: "Ta thử nghe trẻ con xem sao!" mới đánh li?u ra nhận với làng, làm t? cam đoan, đem ti?n v? bảo con đi mua.
Sáng sớm, hai bố con khăn gói, cơm nắm, vác chục quan ti?n ra Thăng Long mua dê. ?ến nơi, Quỳnh nói với bố h?i dò xem hôm nào vua ngự chơi phố. Hôm đó, Quỳnh dậy thật sớm, lén xuống dưới cổng cửa ?ông nằm chực.
?ợi đến quá ng?, nghe tiếng xe ngựa quan quân đi xình xịch trên cổng, Quỳnh li?n khóc oà lên. Vừa lúc xa giá đi qua, vua nghe tiếng trẻ khóc mà không thấy ngư?i, sai lính đi tìm, lôi được Quỳnh ở dưới cống lên. Vua h?i:
- Sao mày lại chui xuống cống?
Quỳnh giả v? không biết là vua, nói:
- Thưa ông, tôi thấy xe ngựa đông, sợ chết chẹt nên tránh xuống cống.
- Thế tại sao khóc?
- Thưa ông, mẹ tôi chết đã ba năm nay mà mãi không thấy bố tôi đẻ để có em mà ẵm nên tôi khóc!
- Thằng này mới dở hơi chứ! Làm gì có đàn ông đẻ bao gi?.
- Thưa ông, mới rồi tôi thấy các cụ làng tôi rủ nhau đi mua dê đực chửa để tiến vua. Dê đực chửa được thì chắc bố tôi cũng đẻ được.
Vua và các quan đi hộ giá đ?u bật cư?i, biết đứa bé này có tài, ứng vào ngôi sao sáng, li?n thưởng ti?n và tha cho dân làng không phải cống dê đực chửa nữa.
Câu đố
Một hôm, nhà có giỗ, làm thịt lợn m?i khách khứa đông lắm. Thấy Quỳnh hay nghịch, ai cũng chòng ghẹo chơi. ?ương lúc Quỳnh xem làm thịt lợn, có một ông Tú tên lá Cát thư?ng tự phụ hay chữ chạy đến béo tai, bảo:
- Tao ra một câu đối, đối được tao tha cho:
- Lợn cấn ăn cám tốn (1)
Quỳnh đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn (2)
Ông Tú lại ra một câu nữa, câu này có ý tự phụ mình là ông Tú:
- Tr?i sinh ông Tú Cát (3)
Quỳnh lại đối:
- ?ất nứt con b? hung
Ông Tú phải lỡm, tịt mắt. M?t ngư?i cư?i ầm cả lên.
(1) Cấn là quẻ cấn, Tốn là quẻ tốn trong bát quái. ?ây lấy nghĩa lợn cấn (chửa) mà ăn tốn cám.
(2) Khôn là quẻ khôn, Càn là quẻ càn cũng trong bát quái, đây lấy nghĩa con chó khôn chớ cắn càn, cắn bậy.
(3) Cát còn có nghĩa là tốt; hung còn có nghĩa là xấu.
Cấy rẽ ruộng chúa Liễu
Lúc Quỳnh còn là h?c trò nhà nghèo, phải ra đ?n Sông xin cấy rẽ. Quỳnh khấn và xin âm dương xem Chúa thuận lấy gốc hay lấy ng?n. Ban đầu chúa thuận lấy ng?n thì Quỳnh trồng rặt thứ khoai lang. ?ến lúc được ăn, Quỳnh đào lấy củ, còn bao nhiêu dây ng?n đem nộp chúa
Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa thuận lấy gốc để ng?n cho Quỳnh, thì Quỳnh trồng các thứ lúa. ?ến mùa gặt, Quỳnh cắt lấy bông, còn bao nhiêu gốc rạ đem nộp Chúa.
Chúa hai lần mắt hợm, tức lắm, song đã trót hứa rồi, không biết làm thế nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc, lẫn ng?n, còn khúc giữa cho Quỳnh, Quỳnh v? kêu ca:
- Chị lấy thế thì em còn được gì nữa!
Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh v? trồng rặt ngô, đến kỳ bẻ ngô, bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ng?n và gốc thì đem nộp Chúa.
Chúa mắc mưa Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ này, Quỳnh đã kiếm được cái vốn to rồi
Vay ti?n chúa
Lại một lần Qùynh vào yết đ?n, thấy chúa có nhi?u ti?n, trông sướng mắt, định vay. Quỳnh khấn:
- Em độ này túng lắm, chị có ti?n để không, xin cho em vay để em buôn bán, kiếm ít l?i.
Nói rồi, khấn đài âm dương: "Sấp thì chia tư, chị cho em vay một phần, ngửa thì chia ba, chị cho một phần, chị mà thuận cho một nửa thì xin nhất âm nhất dương."
Thấy đằng nào Quỳnh cũng vay được, mà ý Chúa thì không muốn cho vay, vì biết được là cho vay, Quỳnh sẽ không trả, li?n cứ làm cho hai đồng ti?n quay tít, chẳng sấp mà cũng chẳng ngửa.
Quỳnh thất thế vỗ tay reo:
- Ti?n múa Chúa cư?i, thế là chị bằng lòng cho em vay cả rồi!
Nói xong, vác hết cả ti?n v?.
Trả ơn chúa Liễu
Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thi. ?ư?ng đi qua đ?n Sông, Quỳnh vào yết Chúa, xin Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh qui v?, Quỳnh mua một con bò mẹ, một con bò con, đem đến lễ, Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi dắt con bò mẹ đến buộc vào tay ngai mà khấn rằng:
- Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay g?i là có một con bò để trả lễ. Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nh?, em xin đem v? khao dân.
Nói rồi, dắt con bò vè. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai Chúa đổ lổng chổng, long gẫy cả. Quỳnh cư?i nói:
- Chị thương em nghèo, trả không lấy, thì em xin đem v? vậy.
Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò
Dòm nhà quan Bảng
?ồ rằng Quỳnh xinh cùng th?i với Thị ?iểm
Quan Bảng sinh ra thị ?iểm, dạy h?c trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả v? đến xem bình văn, để ngấp nghé cô ?iểm. h?c trò biết ý, vào thưa với quan Bản, ngài bắt vào h?i.
Quỳnh thưa:
- Tôi là h?c trò, thấy trư?ng quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết hết rồi, anh đừng giả danh h?c trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải h?c trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan Bảng ra một câu:
- Thằng quỷ ôm cái dấu, đứng cửa khôi nguyên
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- Con mộc dựa cây bàng, dòm nhà bảng Nhãn
Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn h?c. Quỳnh h?c tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đ?c. Từ ngày trư?ng quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu h?c trò danh sĩ đ?u phải nhận Quỳnh tài gi?i hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh h?c gi?i, có ý muốn gả cô ?iểm cho, mà cô ?iểm nghe cũng thuận.
Quỳnh biết rằng cô ?iểm vào tay mình rồi, thoả được ước nguy?n, song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô ?iểm đứng đắn, thùy mị không ứa chớt nhả, Quỳnh lại càng ghẹo dai.
Quan trư?ng mắc lỡm
Khi vào trư?ng thi, không mấy lúc Quỳnh ngồi yên, trong l?u cứ đeo ống quyển đi vẩn vơ gần đư?ng thập đạo. Quan trư?ng biết Quỳnh hay chữ, thấy đi nhung nhăng thì h?i:
- ?ã làm xong được bài chưa, đưa xem?
Quỳnh thưa:
- Mới xong được vài đoạn, nhưng mà thối lắm, không thể ngửi được, xin các ông đừng xem!
Quan trư?ng thấy Quỳnh muốn giấu, mới bảo:
- Thối thì thối cứ đưa đây!
Quỳnh thưa:
- Quả thối thật, đưa ra sợ các quan bưng mũi không kịp!
Các quan không tin, cho là Quỳnh nhún mình, nhất định đòi xem cho được. Bất đắc dĩ, Quỳnh phải nói to:
- Tôi nói thật, các quan không nghe, xem xong đừng có trách tôi nhé!
Rồi trao ống quyển cho các quan. Không ng? Quỳnh hoà cứt vào nước đái để trong ống, bắt châu chấu b? vào từ bao gi?, lúc các quan mở ra, nó bay tung lên bẩn cả quần áo, chạy không kịp.
Quỳnh cư?i ầm lên:
- Tôi đã nói thực, lại cứ đòi xem!
Các quan giận lắm, nhưng không lấy lý gì bắt lỗi được Quỳnh.
?ến kỳ thi Hội, chúa Trịnh cứ ép Quỳnh đi thi để lấy Trạng. Quỳnh không thiết. Chúa ép mãi, phải nghe. Lúc vào thi, làm văn xong, còn thừa giấy, Quỳnh vẽ ngựa, vẽ voi vào sau quyển, rồi đ? mấy câu thơ rằng:
Văn chương phú lục đã xong rồi,
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi.
Tớ có một đi?u xin bảo thật
Ai mà cư?i tớ nó ăn bòi!
Làm thế cốt cho phạm trư?ng quy, không lấy đỗ được.
Trả nợ anh lái đò
Quỳnh đi đò ngang thư?ng chịu ti?n, lâu quá hóa nhi?u, không trả được.
Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:
- Ừ đợi đấy, mai ta trả.
Rồi mua tre nứa, lá gồi làm một cái nhà bè ở giữa sông, trong đ? một câu:
?... mẹ thằng nào bảo thằng nào!
Và phao ầm lên rằng đó là lầu yết thơ của Trạng.
Thấy nói thơ Trạng, thiên hạ nô nức kéo nhau đi xem. ?i đò ra đến nơi, thấy độc một câu như thế, chán quá li?n đi đò v?. Ngư?i khác gặp h?i thì chỉ trả l?i: "Ra mà xem!"
Thế là thiên hạ càng thấy lạ, càng xô nhau ra xem. Anh lái đò chở hết chuyến n? đến chuyến kia không kịp, trong ba bốn ngày, được không biết bao nhiêu ti?n.
?ược mấy hôm, Quỳnh dỡ nhà bè, bán lại cho anh lái đò. Anh lái đò trừ nợ. Quỳnh mắng:
- Anh còn nợ ta thì có, ai làm cho anh mấy hôm chở được bấy nhiêu ti?n?
Anh lái đò mới nhận ra, li?n cám ơn Quỳnh rồi rít và xin trả đủ ti?n.
Ông n? bà kiá
Ở làng Quỳnh có mấy ngư?i tấp tểnh công danh, nay cầu mai cục nh? Quỳnh gây dựng cho, may ra được tý phẩm hàm để khoe với làng nước. Một hôm, Quỳnh ở kinh đô v?, sai ngư?i m?i mấy anh ấy lại bảo:
- Gi? có dịp may, nào các anh có muốn làm ông n? bà kia thì nói ngay.
Thấy Quỳnh ng? l?i như thế, anh nào cũng như mở c? trong bụng, tranh nhau nhận trước.
Quỳnh bảo:
- ?ược các anh v? nhà thu xếp khăn gói, rồi lại đây uống rượu mừng với ta, mai theo ta ra kinh đô sớm.
Anh nào anh nấy lật đật v? nhà, vênh váo, đắc chí lắm, có anh v? đến cổng, thấy vợ đang làm lụng lam lũ, li?n bảo vợ:
- ?t nữa làm nên ông n? bà kia, không được lam lũ thế mà ngư?i ta cư?i cho.
Vợ h?i:
- Bao gi? làm quan mà khoe váng lên thế?
- Nay mai thôi, sắp sửa khăn gói để mai đi sớm!
Nói xong, vội vàng lại nhà Quỳnh đánh chén. Anh nào anh nấy uống say tít, rồi mỗi anh nằm một xó. ?ến khuya, Quỳnh sai ngư?i đem võng, võng anh n? v? nhà anh kia, anh kia v? nhà anh n?, nói dối rằng: Say rượu ngộ cảm phải bôi dầu xoa thuốc ngay không thì oan gia!
Các "bà lớn" đang mơ màng trong giấc mộng, thấy ngư?i gõ cửa mà lại nói những chuyện giật mình như thế, mắt nhắm mắt mở, tưởng là chồng, ôm xốc ngay vào nhà, không kịp châm đèn đóm, rồi nào bôi vôi, nào xoa dầu, miệng lẩm bẩm: "Rượu đâu mà rượu khốn, rượu khổ thế! Ngày mai lên đư?ng mà bây gi? còn say như thế này! Nh? phúc ấm có làm được ông n? bà kia thì cũng lại ti?n toi thôi!"
Xoa bóp cho đến sáng, nhìn thì hoá ra anh láng gi?ng, các bà ngẩn ngư?i mà các anh đàn ông kia lại càng thẹn, cứ cúi gầm mặt xuống cút thẳng. V? nhà thấy vợ mình cũng đang ngẩn ngư?i, đ? mặt tía tai, vội nói ngay:
- Ai ng? nó... x? thế! Tưởng ông n? bà kia là thế nào! Thôi kệch đến già!
Nhặt bã trầu
Một ông quan vào quán ngồi bệ vệ lắm, Quỳnh giả làm h?c trò xác, mon men đến đứng bên, hễ thấy quan ăn miếng trầu nào nhả bã ra thì lại cúi xuống nhặt.
Quan h?i:
- Mày là ai?
- Bẩm, tôi là h?c trò.
- H?c trò sao lại lẩn thẩn thế?
- Bẩm, chúng tôi thấy phương ngôn thư?ng nói: "Miệng kẻ sang có gang có thép!", chúng tôi nhặt xem gang thép như thế nào.
Quan thấy Quỳnh có ý xược, ra oai thét:
- ?ã xưng là h?c trò, thì phải đối ngay câu phương ngôn ấy đi, đối được thì tha cho, không sẽ đánh đòn!
Quỳnh rụt tè thưa:
- Bẩm quan khó lắm!
Quan lại quở:
- Khó thì khó cũng phải đối!
- Bẩm quan con xin đối.
- Nói mau!
Quỳnh mới đ?c:
- ?ồ nhà khó vừa nh? vừa thâm.
Quan ngồi lặng đi rồi đ? mặt nói:
- Ừ đối cũng chỉnh, nhưng mà xấc lắm.
Lỡm quan thị
Có một ông quan thị (1) đại nịnh thần, được Chúa Trịnh yêu lắm. Ông ta thư?ng đến chơi nhà Quỳnh, thấy sách gì cũng mượn xem, mà ít khi trả. Quỳnh ghét cay ghét đắng, định chơi x? một bận cho chừa. Quỳnh bèn lấy giấy trắng đóng thành quyển sách để sẵn. Một hôm, thấy bóng quan thị đằng xa, Quỳnh giả v? cầm sách xem, đợi khi ông ta đến nơi thì giấu đi. Quan thị thấy Quỳnh giấu, ngỡ là sách lạ, đòi xem Quỳnh bảo:
- Sách nhảm có gì mà xem.
Quan thị năn nỉ mãi cũng không được, v? tâu với Chúa. Chúa đòi Quỳnh sang h?i. Quỳnh đám chắc là đòi v? chuyện quyển sách, mới lấy bút viết mấy câu vào sách b? vào tráp khoá lại, rồi sang hầu. Quả nhiên như thế. Quỳnh tâu:
- Không có sách gì lạ, chắc thị thần tâu man với Chúa đó.
Chúa thấy Quỳnh chối, lại càng tin là Quỳnh có sách lạ, bắt phải đem trình. Quỳnh sai ngư?i vè đem tráp sang, mở ra, chỉ thấy có một quyển sách m?ng. Quỳnh rụt rè không dám đưa. Chúa bảo:
- Cứ đưa ta xem. Nếu sách lạ thì ta thưởng, mà có phải sách can phạm thì ta cũng xá cho, đừng ngại.
Quỳnh đưa ra. Chúa mở ra xem, chỉ thấy có mấy câu:
"Chúa vị thần viết: Vi cốt tứ địch, vi cốt tứ địch. Thị thần qui nhị tấu viết: Thần phong chỉ phát, thần phông chỉ phát".
Chúa ngẫm lại không biết nghĩa ra làm sao, bảo Quỳnh cắt nghĩa thì Quỳnh rụt rè tâu:
- Sách ấy là sách nhảm nhí của tiểu thần chỉ xem khi buồn, sợ cắt nghĩa ra rác tai Chúa!
Chúa nhất định không nghe, bắt Quỳnh cắt nghĩa cho được.
Quỳnh vâng lệnh tâu với Chúa, câu ấy nghĩa là:
"Chúa h?i thị thần rằng: làm xương cho sáo, làm xương cho sáo. Thị thần quỳ mà tâu rằng: "Tôi may ngón tóc, tôi may ngón tóc".
Quỳnh cắt nghĩa, nhưng chúa vẫn chưa hiểu ra, lại h?i:
- ?a đành nghĩa đen là như thế, nhưng ý tứ thế nào?
Quỳnh tủm tỉm cư?i không dám nói. Chúa và quan thị đứng hầu bên càng gặng h?i. Quỳnh mới tâu:
- Xin chúa đ?c đảo lại thì ra nghĩa, nhưng mà tục lắm. Bấy gi? Chua với quan thị mới biết Quỳnh lỡm, bảo Quỳnh mang sách v?.
Quỳnh ra, quan thị chạy theo trách Quỳnh nhạo cả Chúa, thực là ngư?i vô phu, vô quân.
Quỳnh dáp lại rằng:
- Ngài bảo tôi là vô phu, vô quân thì b?n thưòng thị đ?i Hậu Hán là gì? Tôi đã giấu mà ngài cứ nịnh để đòi ra cho được thì lỗi tại ai?
Quan Thị tịt mắt.
(1) Tức b?n hoạn quan
Ch?i gà
B?n quan thị, gà thật không có (1) mà lại cứ hay ch?i gà. Nghe nói Quỳnh ch?i gà với sứ Tàu thắng, h? li?n mang gà đến nhà Quỳnh, ch?i thử một vài cựa chơi. Quỳnh vốn ghét b?n quan thị, từ chối, nói là không có gà, nhưng h? nhiễu mãi, phải ừ và hẹn đến mai di bắt gà v? sẽ ch?i. Bên láng gi?ng có một con gà trống thiến, Quỳnh mượn mang vè.
Sáng sớm, mở mắt dậy, đã thấy quan thị đem gà lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống thiến đem ra ch?i. Vừa giao m? được một vài nước, thì gà quan thị đá cho gà trống thiến một cựa vào bụng vỡ hầu lăn cổ chết ngay. Quan thị vỗ tay reo:
- Thế mà đồ rằng gà của Trạng hay, ch?i được gà Tàu, gi? mới biết đồn láo cả!
Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ nói:
- Các ngài nói phải, trước gà tôi ch?i hay lắm, nhưng từ khi tối thiến đi, thì nó đốn đ?i ra thế!
Rồi ôm gà mà than thở: "Khốn nạn thân mày, gà ôi! Tao đã bảo thân phận mày không dái thì chịu trước đi cho thoát đ?i, lại con ngứa ngh? làm gì cho đến nỗi thế! Thôi mày chết cũng đáng đ?i, còn ai thương nữa, gà ôi!"
Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng.
(1) ý thỉ b?n hoạn quan
Ăn trộm mèo
Nhà vua có một con mèo quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn những đồ mỹ vị.
Quỳnh vào chầu, trong thấy, bắt trộm v?, cất xích vàng đi mà buộc xích sắt, nhốt một chỗ, đến bữa thì để hai bát cơm, một bát thịt cá, một bát rau nấu đầu tôm. Mèo ta quen ăn miếng ngon chạy đến bát cơm thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn bát rau nấu đầu tôm. Như thế, được hơn nửa tháng, dạy đã vào khuôn, mới thả ra.
Vua mất mèo, tiếc quá, cho ngư?i đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con giống hệt, bắt Quỳnh đem mèo vào chầu. Vua xem mèo, h?i:
- Sao nó giống mèo của trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của trẫm đẹp bắt đem v?, nói cho thật!
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử thì biết.
- Thử thế nào? Nói cho trẫm nghe.
- Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thị ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì mèo ăn cơm với đầu tôm, rau luộc. Bây gi? để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.
Vua sai đem ra thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch.
Quỳnh nói:
- Xin bệ hạ lượng cho, ngư?i ta phú quý thì ăn cao lương mỹ vị, bần tiện thì cơm hẩm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.
Rồi lạy tạ đem mèo v?.
Tương, muối cũng ngon
Chúa Trịnh quanh năm ăn toàn sơn hào, hải vị, chả thiếu thức gì, mà vẫn không thấy ngon miệng.
Môt hôm, Quỳnh túc trực, Chúa bảo:
- Ta ăn đủ của thơm vật lạ, mà không biết ngon. Ngươi có biết thứ gì ngon thì nói cho ta hay?
- Tâu Chúa, Chúa đã xơi mầm đá chưa ạ?
- Vị ấy ngon lắm à?
- Dạ, ngon lắm.
- Thật như thế thì làm để ta nếm thử xem?
Quýnh sai ngư?i lập tức đi lấy "mầm đá" v? ninh nhừ để làm đồ ngự thực, còn mình thì lủi v? nhà lấy một l? tương ngon, một đĩa muối trắng. L? tương thì bịt thật kỹ ngoài đ? hai chữ "?ại phong" đem sang giấu một chỗ.
Chúa đợi lâu, thấy đói bụng, h?i:
- Mầm đá đã chín chưa?
Quỳnh thưa: Chưa được.
Chốc chốc, Chúa lại h?i, Quỳnh tâu:
- Thứ ấy phải cho thật chín, không thì lâu tiêu.
Khuya, Chúa lại h?i. Quỳnh biết Chúa đói lắm rồi, mới tâu:
- Xin Chúa hãy xơi tạm vài thứ dã vị này, còn mầm đá xin dâng sau.
Rồi truy?n d?n cơm tương với muối dâng lên. Chúa đang đói, ăn ngon miệng. Trông thấy l? đ? hay chữ "?ại phong" lấy làm lạ. Chúa h?i:
- Mầm ?ại phong là mầm gì mà ngon thế?
- Bẩm là đò dã vị thư?ng dùng.
- Là gì, nói lên cho ta biết?
- Bẩm tương ạ?
- Ngươi đ? hai chữ ?ại phong là nghĩa là sao?
- Bẩm ?ại phong là gió lớn, gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tuợng lo là l? tương.
- Lâu nay ta không ăn, quên mất cả vị, sao ngon thế?
- Tâu Chúa, quả không sai. Lúc đói thì ăn gì cũng ngon, no thì không thấy gì vừa miệng!
Chúa cư?i bảo:
- Ngươi nói phải. Thế ra ngươi làm cho ta thật đói để ăn cho biết ngon, chứ đợi mầm đá thì biết đến bao gi? cho chín.
Bà Chúa mắc lỡm
Một bà Chúa có nhan sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phư?ng thấy ai trái ý là sai lính bắt đánh li?n. Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa. Gần đấy có cái ao bèo. Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đứng đá nước chơi.
Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới h?i:
- Ông làm gì đó?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi!
Chúa đ? mặt tía tai, b? đi.
Tiên sư thằng Bảo Thái
Một hôm, Quỳnh cho ngư?i ra bảo các hàng thịt là ngày mai Trạng đặt tiệc thết các quan, cần mỗi hàng bán cho mấy cân, nhưng phải thái sẵn cho đỡ mất công ngư?i nhà. Các hàng thịt mừng rỡ, sáng hôm sau đã thái thịt đầy nhà ch? ngư?i nhà Trạng đến lấy. Ai ng? đợi mãi đến trưa mà cũng chẳng thấy ai, h? bèn tới nhà Trạng thì nhà vắng tanh, chẳng có khách khứa gì cả. H?i Trạng thì Trạng bảo không biết: "Chắc là có đứa nào muốn lỡm bà con đây. Cứ g?i thằng nào bảo thái mà chửi".
B?n hàng thịt tức mình v? réo g?i thằng bảo thái mà chửi:
- Tiên sư thằng bảo thái! Tiến sư thằng bảo thái!
Bảo thái là niên hiệu vua Lê Dụ Tông (1720-1726). Thành thử vua bị chửi một bữa inh cả phố.
Hút chết vì quả đào
Quỳnh cậy tài, đùa cả với chúa, không từ ai. Một hôm, lúc túc trực trong cung, có ngư?i đem đâng vua một mâm đào, g?i là "đào trư?ng th?", Quỳnh thủng thỉnh lại gần, lấy một quả, ngồi ăn, giữa đông đủ mặt vua quan, mà làm như không trông thấy ai cả. Vua quở, giao xuống cho các quan nghi tội. Các quan chiếu theo luật "mạn quân" tâu nghị trảm. Quỳnh quỳ xuống tâu rẳng:
- ?inh thần nghị tội hạ thần như vậy, thạt là đúng luật, không oan, song xin Hoàng thượng rộng dung cho hạ thần được nói vài l?i rồi chết cho th?a!
Vua phán: - Ừ, muống nói gì cho nói!
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần có bụng tham sinh, sợ số chết non, thấy quả g?i là quả "trư?ng th?" thèm quá tưởng ăn vào được sống lâu như Bánh Tổ, để được th? nhà vua cho tận trung. Không ng? nuốt chưa kh?i mồm mà chết đã đến cổ! Hạ thần trộm nghĩ nên đ? tên quả ấy là quả "đoản th?" thì phải hơn, và xin nhà vua trị tội đứa dâng đào đẻ trừ kẻ xu nịnh.
Vua nghe Quỳnh tâu phải, bật cư?i tha tội cho
Chúa ngủ ngày
Một buổi trưa, Quỳnh vào hầu Chúa, không thấy Chúa ở cung, h?i thị vệ, thì ra Chúa đương giấc. Quỳnh không được tiếp, sẵn bút nghiên, đ? ngay hai chữ vào tư?ng rồi giở ra v?.
Lúc Chúa dậy ra công đư?ng, thấy ở tư?ng có hai chữ "ng?a sơn" nét mực hãy còn ướt, không biết ai đ? và cũng không biết nghĩa làm sao, h?i thị vệ mới hay Quỳnh đ?. ?ến buổi hầu chi?u, đông đủ các quan, Chúa h?i, không ai tán được, phải triệu Quỳnh đến.
Quỳnh đến, Chủa h?i. Quỳnh thưa:
- Hai chữ ấy có nghĩa gì sâu sắc đâu, hạ thần cứ lấy nghĩa đen mà viết, không dám có ý tứ gì hiểm hóc cả.
- Cứ cắt nghĩa cho ta nghe, không h? chi mà ngại.
Quỳnh ngập ngừng mãi, mới nói:
- Chữ "ng?a" nghĩa là "nằm", "nằm" hẳn không ai nằm không, tất phải ngáy, chữ "sơn" nghĩa là "núi", "núi" ắt phải có đèo, vậy hợp hai chữ làm một thì nghĩa là "ngáy đèo".
Cả tri?u thần ai cũng cư?i. Chúa cũng bật cư?i. Tan hầu, các quan trách Quỳnh:
- May mà Chúa rộng lượng, chứ không thì hôm nay ông mất đầu!
Quỳnh cư?i không nói gì.
Cây nhà lá vư?n
Quỳnh nhi?u lần thất lễ với chúa, nên trước Chúa quý tr?ng bao nhiêu thì sau lại ghét bấy nhiêu. Quỳnh thấy Chúa ghét, lại càng trêu tợn.
Một lần, Chúa sai lính đến kéo đổ nhà Quỳnh. Quỳnh thấy lính đến thì bảo:
- Chúa sai các anh đến kéo đổ nhà ta thì các anh cứ việc kéo, không được reo, được cư?i, ai mà reo cư?i thì ta cắt lưỡi,
Ngh? kéo nặng thì phải reo hò, không dô ta, không hò khoan đố ai kéo được. B?n lính phải chịu v? không.
Lại một lần nữa, Chúa sai lính đến ỉa giữa nhà Quỳnh. Quỳnh cầm dao ra bảo lính:
- Chúa sai các anh đến ỉa giữa nhà ta, thì cứ việc ỉa, nhưng cấm đái, anh nào mà đái ta cắt dái đi.
Ỉa ai mà nhịn đái được, b?n lính phải cắp đít v?. Có một vài anh láo, nghe thấy thế, đái ở trước nhà, rồi mới đến ỉa, lại đem gáo dừa đ? phòng. Quỳnh thấy nó lập mưu trước, đành chịu nhưng trong bụng căm lắm, bèn kiếm cách xược lại Chúa. ít lâu sau, Quỳnh đi mua một cây cải thật to sai ngư?i đem dâng, làm cơm chúa xơi. Khi Quỳnh vào hầu, Chúa h?i cải đâu mà to lạ thế và khen ngon.
Quỳnh thưa:
- Cải nhà trồng, trước nó không to mấy, nh? độ n? Chúa sai lính đến ỉa nhà thần, thần đem phân ấy bón cho, nên lớn bổng lên thế. Cây nhà lá vư?n đem dâng để chúa xơi.
Chúa Trịnh tái mặt lại.
Trạng chết Chúa cũng băng hà
Từ ngày ấy Chúa có bụng ghét Quỳnh. ?ược mươi hôm, Chúa đòi Quỳnh vào thị yến, định đánh thuốc độc cho chết. Quỳnh biết Chúa căm v? mấy chuyện trước, lần này đòi vào thị yến chắc là có chuyện. Lúc đi dặn vợ con rằng:
- Hôm nay ta vào hầu yến Chúa, lành ít, dữ nhi?u. Ta có mệnh hệ nào, thì không được phát tang ngay, cứ phải để ta vào võng, cắt hai đứa quạt hầu, rồi g?i nhà trò v? hát, đợi bao gi? phủ Chúa phát tang thì ở ngoài hãy phát tang.
Dặn xong, lên võng đi.
Quỳnh vào đến cung, đã thấy Chúa ngồi đấy rồi. Chúa bảo:
- Lâu nay không thấy mặt, lòng ta khát khao lắm. Vừa rồi, có ngư?i tiến hải vị, ta nhớ đến ngươi, đòi vào ăn yến, ngươi không được từ.
Quỳnh biết Chúa thù v? cây cải hôm n?, không ăn không được. Vừa nếm một miếng thì Chúa h?i:
- Bao gi? Quỳnh chết?
Quỳnh thưa:
- Bao gi? Chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết.
Ăn xong, Quỳnh thấy trong ngư?i khang khác, cáo xin v?. Vừa v? đến nhà thì tắt hơi. Vợ con cứ theo l?i Quỳnh dặn mà làm. Chúa sai ngư?i dò xem Quỳnh có việc gì không, thấy Quỳnh đương nằm võng nghe nhà trò hát, mà ngư?i nhà thì đi lại vui vẻ như thư?ng, v? tâu với Chúa. Chúa li?n đòi đầu bếp lên h?i xem đánh thuốc thế nào mà Quỳnh không việc gì.
Chúa ăn thử, được một chốc thì Chúa lăn ra chết.
Nhà Quỳnh nghe thất trong dinh Chúa phát tang, thì ở nhà cũng phát tang. Chúa và Trạng đưa ma một ngày. Thế mới biết Quỳnh chết đến cổ còn lừa được Chúa mới nghe.
Ngư?i đ?i v? sau có câu thơ:
Trạng chết Chúa cũng băng hà
Dưa gang đ? đít thì cà đ? trôn.
đến đây hết hihihi Smile
tất cả chuyện này PB sưu tầm trong www.nonsong.com
Posting Permissions
- You may not post new threads
- You may not post replies
- You may not post attachments
- You may not edit your posts
Forum Rules